Việc tiếp tục giảm thuế giá trị gia tăng (VAT) từ 10% xuống 8% đang được Quốc hội thảo luận như một giải pháp tài khóa thiết thực nhằm kích thích tiêu dùng nội địa, hỗ trợ doanh nghiệp và thúc đẩy phục hồi kinh tế trong bối cảnh nhiều khó khăn vĩ mô vẫn còn hiện hữu.

Quốc hội thảo luận ở hội trường về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về giảm thuế giá trị gia tăng.

Quốc hội thảo luận ở hội trường về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về giảm thuế giá trị gia tăng.

Tác động lan tỏa đến toàn nền kinh tế

Theo phân tích từ nhiều đại biểu Quốc hội trong phiên thảo luận ngày 28/5, thuế VAT là loại thuế phổ quát, ảnh hưởng trực tiếp đến mọi mắt xích của nền kinh tế: từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Do đó, việc giảm VAT không chỉ là một chính sách tài khóa mang tính ngắn hạn, mà còn tạo đòn bẩy lan tỏa, thúc đẩy tăng trưởng bền vững.

Đại biểu Trần Khánh Thu (Thái Bình) nhấn mạnh: “Chính sách giảm VAT lần này có ý nghĩa đặc biệt khi đất nước bước vào giai đoạn chuẩn bị Đại hội Đảng các cấp và xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cho giai đoạn 2025–2030”. Việc giảm thuế không chỉ hỗ trợ người tiêu dùng mà còn trực tiếp làm giảm chi phí đầu vào cho doanh nghiệp, qua đó tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường.

Tác động ngân sách và hiệu quả kinh tế thực tế

Báo cáo mới nhất của Bộ Tài chính cho biết, việc tiếp tục áp dụng mức thuế VAT 8% từ 1/7/2025 đến hết 31/12/2026 sẽ làm giảm thu ngân sách khoảng 121.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, các năm trước đã chứng minh rằng chính sách giảm thuế VAT không làm suy giảm nguồn thu mà ngược lại còn tạo ra hiệu ứng kích thích sản xuất, giúp ngân sách năm sau vượt dự toán năm trước. Giai đoạn 2022–2024, tăng trưởng GDP đạt lần lượt 8,54%, 5,07% và 7,09%, trong khi lạm phát vẫn được kiểm soát trong ngưỡng 3–3,6%.

Ngoài ra, các mặt hàng công nghệ thông tin, sản phẩm kim loại và nhóm hàng tiêu thụ đặc biệt như xăng dầu cũng được đề xuất đưa vào diện giảm thuế lần này – điều chưa từng có trong các nghị quyết trước đây.

Cần cơ chế minh bạch và kiểm soát hiệu quả chính sách

Dù đồng thuận với chủ trương giảm thuế, nhiều đại biểu bày tỏ lo ngại về tính khả thi khi triển khai. Đại biểu Dương Tấn Quân (Bà Rịa – Vũng Tàu) kiến nghị Chính phủ cần công khai danh mục hàng hóa, dịch vụ được giảm thuế theo mã HS rõ ràng, dễ tra cứu. Đồng thời, cần ban hành hướng dẫn sớm và chi tiết cho các tình huống chuyển tiếp hợp đồng – xuất hóa đơn.

Một vấn đề đáng quan tâm là việc một số doanh nghiệp được giảm thuế đầu ra nhưng không điều chỉnh giá bán, khiến người tiêu dùng không được hưởng lợi. Do đó, đề xuất được đưa ra là tăng cường cơ chế kiểm tra, giám sát giá cả thị trường, đặc biệt với các mặt hàng thiết yếu.

Giải quyết những bất cập trong hoàn thuế VAT

Một trong những vấn đề “nóng” được đại biểu Nguyễn Văn Thân (Thái Bình) và Nguyễn Quang Huân (Bình Dương) nêu lên là tình trạng doanh nghiệp bị chậm hoàn thuế. Thậm chí, có những trường hợp cơ quan nhà nước tại địa phương chưa bố trí vốn hoàn thuế, khiến doanh nghiệp bị “kẹt” giữa các bên quản lý. Nhiều năm không đòi được tiền VAT, doanh nghiệp buộc phải ghi nợ thuế, ảnh hưởng đến dòng tiền và hoạt động sản xuất kinh doanh.

Các đại biểu đề nghị Quốc hội cần bổ sung rõ trách nhiệm của cơ quan thu và hoàn thuế VAT trong nghị quyết. “Khi doanh nghiệp chậm nộp thuế thì bị phạt. Vậy khi cơ quan nhà nước chậm hoàn thuế thì cũng cần chịu trách nhiệm tương ứng,” đại biểu Thân thẳng thắn nêu quan điểm.

Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng.

Bộ trưởng Tài chính Nguyễn Văn Thắng

Cam kết từ phía Bộ Tài chính

Giải trình tại Quốc hội, Bộ trưởng Tài chính Nguyễn Văn Thắng khẳng định sẽ chấn chỉnh và đẩy nhanh tiến độ hoàn thuế, đặc biệt trong các trường hợp thuộc diện được hoàn trước theo quy định. Ông cũng tiếp thu ý kiến của các đại biểu để rà soát kỹ hơn các vướng mắc thực tiễn, bảo đảm hiệu lực chính sách được triển khai nhanh chóng và minh bạch.

 

Tổng kết: Việc kéo dài thời gian giảm thuế VAT đến cuối năm 2026 với phạm vi mở rộng được kỳ vọng sẽ tạo dư địa lớn cho cả khu vực sản xuất và tiêu dùng. Tuy nhiên, để chính sách thật sự phát huy hiệu quả, cần có cơ chế kiểm soát giá và quy trình hoàn thuế rõ ràng, minh bạch, đảm bảo quyền lợi công bằng giữa người dân, doanh nghiệp và Nhà nước.